Thách thức lớn trong xử lý nước thải đô thị – Môi trường và Đô thị Điện tử

Khánh Dung –  Thứ tư, 01/09/2021
09:41 (GMT+7)

Những năm gần đây, tốc độ đô thị hoá của Việt Nam rất nhanh chóng. Điều này trở thành một thách thức lớn
trong việc xử lý nước thải đô thị.

Việt Nam hiện có hơn 800 đô thị nhưng do điều kiện kinh tế còn khó khăn nên việc đầu tư vào hệ thống kỹ thuật hạ
tầng đô thị nói chung cũng như hệ thống cấp thoát nước đô thị nói riêng còn nhiều hạn chế. Hạ tầng kỹ thuật xử
lý nước thải thiếu hụt dẫn tới tình trạng nước thải đô thị chưa qua xử lý được xả thẳng ra môi trường đe doạ môi
trường và trở thành khó khăn lớn cho các đô thị Việt Nam.

Theo PGS .TS Nguyễn Đức Khiển, nguyên Viện trưởng Viện nghiên cứu Môi trường đô thị và Công nghiệp Việt Nam :
 “Thách thức lớn trong thoát nước đô thị là việc đấu nối xả nước thải của các hộ gia đình vào mạng lưới
thoát nước thành phố. Hầu hết các dự án thoát nước nguồn vốn ODA đều không có hợp phần này. Sau dự án, việc đầu
tư của chính quyền đô thị hay cộng đồng cho việc đấu nối là rất khó thực hiện được. Vì thế, việc lựa chọn sơ đồ
tổ chức thoát nước, công nghệ thu gom, xử lý nước thải, mô hình tổ chức quản lý vận hành, đấu nối hộ gia đình,
đảm bảo bù đắp chi phí vận hành và bảo dưỡng hệ thống thoát nước… là các vấn đề cần lưu tâm trong xử lý nước
thải đô thị. Tùy điều kiện cụ thể, chúng ta có thể áp dụng mô hình khác nhau nhưng mục đích chung vẫn là tính
hiệu quả trong xử lý nước thải đô thị để giảm thiểu ô nhiễm nguồn nước”.

Cũng theo PGS .TS Nguyễn Đức Khiển, việc đầu tư cũng như quản lý hạ tầng kỹ thuật xử lý nước thải đô thị ở Việt
Nam hiện nay đang đối mặt với rất nhiều thách thức từ chính sách pháp luật, nguồn vốn, công nghệ cho tới ý thức
tự nguyện của người dân.

Ngoài ra, có một nghịch lý chung đối với các địa phương là hầu như các sông lớn nhỏ, kênh, rạch, ao hồ đều rơi
vào tình trạng ô nhiễm nghiêm trọng thì nhiều nhà máy xử lý nước thải vận hành chưa hiệu quả để phù hợp với công
suất thiết kế. Chưa kể nước thải từ các KCN, CCN, làng nghề, nước thải sinh hoạt hoặc thậm chí nước mưa dẫn
chung về nhà máy mà gây ra nhiều thách thức lớn trong suốt quá trình xử lý môi trường.

tm-img-alt
Thống kê của Bộ Xây dựng, tính đến năm 2020 có 43 nhà máy xử lý nước thải đô thị tập trung với tổng
công suất thiết kế trên 926.000 m3/ngày đêm. Tuy nhiên tỷ lệ nước thải được xử lý chỉ đạt khoảng 13%.
 Ảnh Võ Văn Bông
tm-img-alt
Bộ Xây dựng dẫn thông tin thống kê của UBND TP.Hà Nội cho biết, hiện thành phố này có khoảng hơn
5.700 km cống rãnh; hơn 250 km mương, sông, kênh; hơn 40.000 ga thu; hơn 110 ga thăm các loại; 125 hồ điều
hòa; 10 trạm bơm thoát nước mưa chính… Ảnh Võ Văn Bông
tm-img-alt
Trong khi đó, Hà Nội có 6 nhà máy xử lý nước thải đã đưa vào hoạt động, gồm: Kim Liên (công suất
3.700 m3/ngày đêm), Trúc Bạch (công suất 2.300 m3/ngày đêm), Bảy Mẫu (công suất 13.300 m3/ngày đêm), Yên Sở
(công suất 200.000 m3/ngày đêm), Bắc Thăng Long – Vân Trì (42.000 m3/ngày đêm), Hồ Tây (15.000 m3/ngày đêm).
Tuy nhiên, các nhà máy xử lý nước thải này chỉ xử lý được 22% số lượng nước thải ra hằng ngày, còn tới 78%
vẫn đang được xả thẳng ra môi trường. Ảnh Nguyễn Quốc Hùng
tm-img-alt
UBND TP. Hà Nội cũng thừa nhận tiến độ thực hiện các dự án xây dựng nhà máy xử lý nước thải còn kéo
dài và số dự án cần thực hiện vẫn chưa đáp ứng được Kế hoạch số 189/KH-UBND ngày 30/12/2013 đề ra (còn 12 dự
án cần được triển khai thực hiện). Ảnh Nguyễn Quốc Hùng
tm-img-alt
Bên cạnh đó, việc thực hiện Quy hoạch thoát nước thủ đô Hà Nội đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2050
còn nhiều khó khăn. Các công trình đầu mối, hạng mục ưu tiên đầu tư nhưng chưa được triển khai do vốn đầu tư
xây dựng hệ thống thoát nước rất lớn, việc kêu gọi xã hội hóa gặp nhiều khó khăn. Ảnh Nguyễn Quốc Hùng
tm-img-alt
Nước thải đô thị cũng là vấn đề nhức nhối của TP. Hồ Chí Minh. Báo cáo của thành phố này cho biết,
ước tính lượng nước thải từ sinh hoạt đô thị phát sinh khoảng 1.579.000 m3/ngày đêm. Ảnh Nguyễn Quốc Hùng
tm-img-alt
Hiện thành phố đang vận hành 3 nhà máy xử lý nước thải đô thị tập trung với tổng công suất
302.000 m3/ngày đêm gồm: Bình Hưng giai đoạn 1 (công suất 141.000 m3/ ngày đêm), Bình Hưng Hòa (công suất
30.000 m3/ ngày đêm), Tham Lương – Bến Cát (công suất 131.000 m3/ngày đêm). Ảnh Phạm Thị Thu
tm-img-alt
Nếu tính lượng nước thải được xử lý cục bộ tại khu dân cư mới, chung cư, công nghiệp, thương mại –
dịch vụ (không bao gồm nước thải từ khu công nghiệp) thì tổng lượng nước thải thu gom xử lý của toàn thành
phố là 370.624 m3/ngày đêm (đạt tỷ lệ 21,2%). Ảnh Phạm Thị Thu
tm-img-alt
Hiện nay TP. Hồ Chí Minh tiếp tục huy động mọi nguồn lực triển khai các dự án nhà máy xử lý nước
thải đô thị tập trung. Dự báo, trong điều kiện cuối năm 2020, nếu hoàn thành 3 nhà máy thì 80% lượng nước
thải sinh hoạt đô thị của thành phố sẽ được thu gom, xử lý.Ảnh Phạm Thị Thu
tm-img-alt
Những dữ liệu của TP. Hà Nội và TP. Hồ Chí Minh đã phần nào chỉ ra thực trạng xử lý nước thải đô
thị ở Việt Nam. Ảnh Phạm Thị Thu
tm-img-alt
Đánh giá hoạt động quản lý nước thải đô thị ở Việt Nam, Ngân hàng Thế giới (WB) cho biết, mặc dù
60% hộ gia đình Việt Nam đấu nối xả nước thải vào hệ thống thoát nước công cộng, nhưng hầu hết nước thải
được xả thẳng ra hệ thống tiêu thoát nước bề mặt và chỉ có 10% lượng nước thải được xử lý. Ảnh Phạm Thị Thu
tm-img-alt
Trong khi 90% hộ gia đình xả nước thải vào bể tự hoại, chỉ 4% lượng phân bùn được xử lý. Mức thiệt
hại kinh tế do vệ sinh kém ước tính là khoảng 780 triệu Đô la Mỹ mỗi năm, tương đương 1,3% GDP. Ảnh Thân
Tình
tm-img-alt
Bên cạnh đó, khả năng thu hồi chi phí đầu tư xây dựng, chi phí vận hành và bảo dưỡng hệ thống xử lý
nước thải nhìn chung còn thấp. Ảnh Thân Tình
tm-img-alt
Trong những năm tới, Việt Nam có nhu cầu vốn đầu tư rất cao, dự kiến cần tới 8,3 tỉ đô la Mỹ để
cung cấp dịch vụ thoát nước cho khoảng 36 triệu dân đô thị vào năm 2025. Ảnh Nguyễn Quốc Hùng